Vào thời La Mã, nhà triết học và nhà thơ
Lucretius đã viết như sau: "Thật là thú vị biết bao khi ngọn gió biển thổi
mạnh, ta đứng nơi bờ và nhìn ra ngoài khơi, thấy các người đi biển trong cơn
bối rối". Ðối với kẻ sống trên đất liền, họ thấy rằng khó mà hiểu nổi tại
sao nhiều người mang thân ra nơi biển cả đầy nguy hiểm ?
Nếu có kẻ ghét biển cả thì lại có người yêu
biển rộng một cách đắm say mặc dù biển cả là nơi nguy nan, dữ tợn, hiểm độc.
Giới thủy thủ thực sự thấy mình là kẻ lãng du do tâm hồn, họ là kẻ hoạt động,
kẻ phấn đấu và cũng là kẻ đi tìm những miền đất xa xôi của thế giới.
Từ khi lịch sử bắt đầu, việc vượt biển bằng
thuyền đã là cách duy nhất để đi từ miền đất này sang miền đất khác. Con thuyền
chuyên chở nào hàng hóa, quần áo, của cải, dụng cụ, hành khách, tư tưởng và văn
hóa từ quốc gia này đến quốc gia kia. Nhờ thủy vận mà văn minh của nhân loại đã
lan đi khắp thế giới.
Con người được sinh ra trên đất liền nhưng
con người đã sống nhờ nước của sông và biển. Sông hồ và biển cả đã là mối lo sợ
và cũng là nơi thách đố của con người và người thời cổ đã tốn mấy ngàn năm mới
biết tới cách xử dụng sông hồ và đại dương.
1. Các dân tộc hàng hải đầu tiên.
Nền Văn Minh của
Nhân Loại bắt đầu hơn năm ngàn năm về trước tại thung lũng các con sông Nil,
Inde và Mesopotamie. Những con sông này cho con người nước để cày cấy, cho thực
phẩm như tôm cá và cũng trên những giòng sông đó, con người bắt đầu biết dùng
thuyền đi xuôi ngược, mang trao đổi các tư tưởng và làm cho nền văn minh phong
phú hơn. Rồi các con sông dẫn con người dần dần ra biển khơi và con người dùng
thuyền, tìm cách vượt biển để tìm các nguồn lợi tại những miền đất khác.
Thứ thuyền đơn
giản nhất mà con người xử dụng là một khúc cây hay một bó tre, rồi nhiều khúc
cây được ghép lại thành cái bè hay một khúc cây lớn được đục một khoảng trống ở
giữa thành một con thuyền. Bốn ngàn năm trước Tây Lịch, con người đã phát minh
ra mái chèo và bánh lái rồi tới cột buồm và cánh buồm, tất cả những kiến thức
này đã được tổng hợp lại để chế tạo thuyền buồm, và thuyền buồm được xử dụng
đầu tiên trên các con sông miền Ai Cập và Mesopotamie. Trên sông Nil, thuyền đã
đi lại đông đảo, từ các thuyền nhỏ đến các thuyền rồng của hoàng gia và các con
thuyền thật lớn chở những đồng hồ mặt trời rất nặng.
Sau đó bằng
thuyền, con người đã tìm cách mon men ra biển khơi do vấn đề thương mại. Người
Ai Cập vì cần gỗ, nên phải giao dịch với người Phénicien. Các con thuyền Ai Cập
thường làm bằng gỗ acia hay sycamore nên không bền bỉ nơi nước biển, vì vậy họ
phải mua gỗ cedar của miền Syrie. Tại Hồng Hải, người dân thường thấy các con
thuyền Ai Cập xuôi ngược. Người Ai Cập cũng dong buồm xuống phía nam châu Phi
để mua hương liệu, nhựa cây ...
Vào khoảng 2,000
năm trước Tây Lịch, người Ai Cập đã đào một con sông nhân tạo khá rộng nối liền
sông Nil và Hồng Hải để làm dễ dàng sự thông thương. Sau đó sự tìm hiểu các
miền đất khác được người Ai Cập chú ý. Dưới thời Nữ Hoàng Hatshepsut, một phái
đoàn thám hiểm được phái đi tới miền Punt, có lẽ là miền Somalie ngày nay, và
đã mang về nào gỗ lạ, nào kim loại, thú vật, khỉ và đười ươi, gia súc và cả thổ
dân nữa.
Vào thời kỳ thịnh
vượng của Vua Pha-Rông Thutmose III (1490 - 1436 trước TL), 18 đạo binh Ai Cập
đã được chuyên chở tới Syrie bằng thuyền. Tuy nhiên thuyền Ai Cập thời bấy giờ
chưa được đóng một cách chắc chắn và việc buôn bán do các đội thương thuyền của
các nước khác đảm nhận. Ai Cập thời đó mua gia súc của miền Tiểu Á, vải vóc của
Syrie, hương liệu và ngà voi của Punt, thực phẩm và đồng của Cyprus.
Tại miền Ðịa Trung
Hải, Crète là nơi có lực lượng hải thuyền quan trọng nhất. Người đảo Crète đã
biết đóng các con thuyền chắc chắn, có đủ sườn thuyền và sống thuyền. Họ đã
buôn bán tại nhiều nơi rải rác từ Sicile đến Syrie và mang về quê hương của cải
và đồ trang sức. Người đảo Crète có tính tình vui vẻ, họ ưa vui thú, nền văn
minh của họ đã được lan truyền rải rác tại nhiều nơi, đến cả các tỉnh Hy Lạp
như Mycenae và Pylos. Từ năm 1450 trước Tây Lịch, người Hy Lạp thắng thế và
trong nhiều thế kỷ, dân Hy Lạp và dân Crète đã trở nên giàu có và hùng mạnh
nhất. Nhưng nền văn minh của Mycenae cũng tàn dần do các rợ từ phía Bắc Âu đi
xuống miền nam bằng đường biển và đường bộ, cắt đứt các con đường doanh thương
trên Ðịa Trung Hải. Tại Hy Lạp, các thành phố trở nên xung đột với nhau và các
học giả còn cho rằng trận đánh thành Troie do ý muốn tìm đường ra Hắc Hải của
người thành Mycenae gặp phải lực lượng Troie chặn lại.
Sau thời kỳ suy
tàn của thành Mycenae, biển cả ở trong tay người Phénicien kiểm soát. Giống dân
này vừa tàn nhẫn, vừa kín đáo, lại là những nhà buôn lanh lợi. Người Phénicien
đã đóng thuyền bằng gỗ cedar của xứ Liban và bằng thuyền, họ đã mang hàng hóa
và nền văn minh đến các xứ sở khác. Người Phénicien đã đi về phía tây, tới đảo
Malte, Sicile, Sardaigne, Tây Ban Nha và Bắc Phi và đã mang về xứ của họ nào
sắt, chì, bạc. . . Có lẽ người Phénicien đã tới tận các hải đảo Anh Cát Lợi
thời đó còn trong thời kỳ bán khai, để tìm kiếm kẽm và họ cũng đã đi vòng qua
châu Phi từ tây sang đông vào khoảng năm 600 trước Tây Lịch. Ði đến đâu, người
Phénicien thiết lập tại đó các trạm buôn bán rồi những nơi này trở thành thuộc
địa của họ : Cadiz tại Tây Ban Nha, Utica và Carthage tại Bắc Phi. Carthage do
Tyre lập nên, dần dần trở thành một thành phố lớn và vào khoảng năm 700 trước
Tây Lịch, lại có các thuộc địa khác như Sicile, Sardaigne, Malte, các hòn đảo
Balearic và phần duyên hải Tây Ban Nha.
Khi các thành phố
Hy Lạp vượt dần lên mức độ hùng mạnh vào khoảng năm 800 trước Tây Lịch, thì các
thuộc địa của Hy Lạp cũng tăng lên. Do dân số quá đông, người Hy Lạp phải tìm
cách di dân đi các nơi khác. Miletus đã lập nên các thuộc địa tại Bắc Hải và
Corinth lập ra Cyracuse tại Sicile. Nhiều thành phố khác dọc theo miền nam nước
Ý Ðại Lợi và đảo Sicile đã mang sắc thái văn minh Hy Lạp.
Tới thế kỷ thứ 6
trước Tây Lịch, thời kỳ thuộc địa tàn dần nhưng Ðịa Trung Hải vẫn tấp nập các
thương thuyền. Dọc theo các hải trình thường có các chiến thuyền di chuyển mau
lẹ, canh chừng bọn hải tặc. Chiến thuyền thời bấy giờ có mũi nhọn bọc đồng với
nhiều tay chèo và chiến thuật trên biển cả gồm có việc cho thuyền đâm thẳng vào
sườn thuyền địch. Loại chiến thuyền này đã được cả hai đạo quân Ba Tư và Athens
dùng trong trận hải chiến tại Vịnh Salamis và Tướng Themistocles của xứ Athens
đã chiến thắng vẻ vang.
Trong suốt một thế
kỷ, xứ Athens đã làm bá chủ trên biển khơi với lực lượng hải quân trên 400
chiến thuyền. Hải cảng Pirasus của Athens là nơi buôn bán sầm uất nhất trong
miền Ðịa Trung Hải. Tới khi xẩy ra cuộc xung đột với xứ Sparte, Athens yếu dần.
Trận chiến tranh Peloponèse đã kéo dài trong 27 năm và vào năm 415 trước Tây
Lịch, khi định chiếm Syracuse, Athens đã bị thiệt hại 200 chiến thuyền và
50,000 quân. Lực lượng hải quân Athens chấm dứt khi Ðại Ðế Alexandre chết vào
năm 323 trước TL. Thời đó, người Hy Lạp đã chế ngự cả một vùng rộng lớn, từ Ấn
Ðộ tới Tây Ban Nha.
Trên Ðịa Trung
Hải, các thuyền chở hàng trọng tải nặng hơn và các chiến thuyền cũng được biến
cải. Nghệ thuật đóng thuyền được cải tiến. Dionysius tại Syracuse đã nghĩ ra
loại thuyền gồm 4 và 5 lớp mái chèo và Antigonus tại Hy Lạp cùng con trai là
Demetrius còn chế tạo các chiến thuyền lớn hơn với 16 lớp mái chèo tại xưởng
đóng thuyền ở Phénicie. Tới các thời Vua Ptolémée tại Ai Cập, thuyền được đóng
với 30 lớp mái chèo mỗi bên. Người ta còn ghi lại rằng vào thời Vua Ptolémée IV
vào thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch, thuyền được đóng với 40 lớp mái chèo gồm 4,000
tay chèo. Chiếc thuyền này dài hơn 130 thước, rộng gần 20 thước và dĩ nhiên
không dùng vào việc thủy chiến.
Tới thế kỷ thứ 3
trước TL, người La Mã bắt đầu chống lại người Carthage và chiếm dần các thành
phố tại miền nam Ý Ðại Lợi. Khi trận chiến tranh đầu tiên xẩy ra vào năm 216
trước TL, người La Mã bắt đầu nghĩ tới việc đóng chiến thuyền. Do bản tính kiên
nhẫn, người La Mã đã chiến thắng sau 23 năm. Hải Quân La Mã dần dần trở nên
hùng mạnh nhất, nên đã kiểm soát được gần hết vùng Ðịa Trung Hải. Năm 67 trước
TL, Pompée quét sạch hải tặc trên Ðịa Trung Hải trong một cuộc hành quân kéo
dài 3 tháng. Trong 400 năm liền, lực lượng Hải Quân La Mã đã ngự trị trên biển
cả và các thương gia La Mã đã buôn bán tận các nơi thật xa như Mã Lai, Nam
Dương và tới cả bờ biển Trung Hoa.
Bên châu Á, nhiều
dân tộc đã biết dùng thuyền để đi trên sông và vượt biển. Người Polynesien đã
rời lục địa châu Á có lẽ vào thế kỷ thứ 3 trước TL và đi về phương đông. Họ di
cư từ đảo nọ sang đảo kia và sau ngàn năm, họ đã đến tận các hải đảo nằm trong
Thái Bình Dương . Người Polynesien đã dùng các con thuyền lớn ghép lại làm hai,
phần giữa dành cho đàn bà, trẻ em, gia súc, cây cỏ và thực phẩm. Mỗi thuyền đôi
như vậy gồm hơn 50 tay chèo, lại có buồm và với 300 thuyền như vậy, họ đã ra đi
mà không sợ lạc hướng. Họ đã thực hiện được các cuộc hành trình rất xa, tới
21,300 dậm mà không ghé lại một hòn đảo nào, chẳng hạn như việc đi từ quần đảo
Marquesas tới quần đảo Hawaii. Tại Trung Hoa, người dân cũng biết dùng thuyền
để đi trên biển và trên sông nhưng thuyền của người Trung Hoa không biến đổi
nhiều sau cả ngàn năm.
2. Chiến thuyền và chiến tranh.
Giữa phương Ðông
và phương Tây có một dân tộc làm liên lạc trong nhiều ngàn năm, đó là người Ả
Rập. Trong thời kỳ văn minh Hy Lạp, người Ả Rập đã cùng người Ấn Ðộ buôn bán
tận châu Á và tới đầu thời Trung Cổ, do mối liên lạc với Trung Hoa, họ đã mang
về châu Âu một phát minh quan trọng cho ngành Hàng Hải : địa bàn.
Tới thế kỷ thứ 3
sau Tây Lịch, người Ả Rập buôn bán rất sầm uất từ Tây Ban Nha tới Ấn Ðộ.
Baghdad thời bấy giờ là một hải cảng rất lớn và nhộn nhịp. Người ta thấy tại
nơi này đầy đủ sản phẩm lạ : lụa và dầu thơm của Trung Hoa, gia vị và thuốc
phiện từ Ấn Ðộ, lông thú, mật ong, hồng ngọc và dân nô lệ từ Trung Á, Nga và
Bắc Âu, và ngà voi từ châu Phi. . .
Vào thế kỷ thứ 5,
người Ả Rập đã chiếm được Cyprus, Crete và Sicile và đe dọa thành
Constantinople, thủ đô phía đông của đế quốc La Mã. Sau 5 năm tấn công thủ đô
này, người Ả Rập đã bị hạm đội Byzantine đánh bại và Constantinople trở nên một
trung tâm thương mại lớn nhất. Trong các cuộc đụng độ hải quân giữa Byzantium
và người Ả Rập, các chiến thuyền Byzantine đã được những lính đánh thuê người
miền Scandinavie điều khiển.. Giống người này rất tài giỏi về hàng hải, đã tự
nhận mình là Vua của biển cả hay Viking. Năm 911, thủ lãnh Viking là Rolle đã
bắt Vua nước Pháp nhường cho mình phần đất Normandy. Tới năm 1,000, Leif Ericsson
trên đường đi đến Greenland, đã gặp bão và dạt vào Bắc Mỹ, như vậy họ đã thám
hiểm châu Mỹ trước Christophe Colomb hàng mấy trăm năm.
Vốn là các thủy
thủ tài ba, người Viking lúc đầu chỉ chuyên đi cướp phá nhưng dần dần họ trở
nên văn minh và trở thành các tín đồ Thiên Chúa Giáo. Họ đã ngự trị từ Bắc Âu
tới Bắc Phi và định cư cả trên các lãnh thổ Anh, Pháp, Ý, Iceland và Greenland.
Người Viking đã chiến thắng nhờ các loại thuyền đặc biệt của họ. Các chiến
thuyền Viking với tên là Drakkars (con Rồng) và Snekkars (con Rắn) dài hơn 30
thước với 60 hay 80 tay chèo, lại có các cánh buồm hình vuông nhiều màu sắc.
Mỗi làng Viking có nhiều loại thuyền này và khi định tấn công một nơi nào, hàng
trăm chiến thuyền Viking thường tập trung tại một bờ biển vào nửa đêm để tế
thần Odin và Thor trước khi xuất phát. Năm 1066, Vua Viking từ vùng Normandy
tên là William Ðại Thắng Vương xâm chiếm nước Anh bằng một hạm đội các chiến
thuyền dài và đã giết được Vua nước Anh là Harold.
Vào năm 1098, trận
Thánh Chiến đầu tiên mở màn và các Thập Tự Quân đã được chuyên chở bằng các
thuyền Ý Ðại Lợi. Thuyền của các miền Venise và Gênes được xử dụng cho tới cuối
thế kỷ 13 trong hai lần xuất quân không thành của Vua Louis 9 nước Pháp vào các
năm 1248 và 1270, lần thứ nhất nhà Vua bị bắt tại Ai Cập và phải trả tiền chuộc
còn lần thứ hai nhà Vua bị chết vì bệnh dịch.
Tới thế kỷ 14, các
xứ Venise, Gênes, Ý và Byzantium bắt đầu bị lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa. Người
Thổ đã vượt dần lên từ năm 1300 và đến năm 1416, họ đụng độ với Venise. Năm 1453,
Constantinople bị người Thổ chiếm và người xứ Gênes bị loại ra khỏi vùng biển
Égée.
Trong gần hai thế
kỷ đã xẩy ra các xung đột giữa phe Thiên Chúa Giáo và phe Hồi Giáo vì quyền
kiểm soát Ðịa Trung Hải. Năm 1571, cuộc xung đột đó trở nên mãnh liệt nhất trong
trận thủy chiến vĩ đại Lepanto. Một phe là các chiến thuyền Thổ Nhĩ Kỳ và Hồi
Giáo, bên kia gồm Tây Ban Nha, Venise và lực lượng của Giáo Hoàng với 400 chiến
thuyền. Sau trận đánh này, mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ bị bại, cả lực lượng Venise cũng
bị tàn dần.
Sau các trận Thánh
Chiến, châu Âu bắt đầu thức tỉnh về ý niệm quốc gia. Trận chiến tranh Một Trăm
Năm (1337 & 1453) xẩy ra giữa nước Anh và nước Pháp, đã kết thúc bằng sự bá
chủ trên mặt biển của nước Anh và chế độ trung ương tập quyền tại nước Pháp.
3. Hải Quân Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha.
Từ lâu, các thương
gia người Ý đã mang về châu Âu nào gia vị, nào vải vóc và dầu thơm của xứ Ấn Ðộ
mà khi đó người ta chỉ biết lờ mờ. Con đường đi qua Ðịa Trung Hải và Hồng Hải
vào thế kỷ 15 và 16 đã bị lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ ngăn chặn, trong khi các thương
gia châu Âu lại đang mong muốn một nơi để bán hàng. Vì vậy họ nghĩ chỉ còn cách
đi vòng xuống phía dưới châu Phi hay đi về phương tây rồi sang Ấn Ðộ và điều
này có thể thực hiện nếu trái đất tròn theo như lý thuyết của vài nhà thiên
văn.
Sở dĩ vào các thế
kỷ trước người ta chưa dám nghĩ tới việc đi mạo hiểm quá xa như vậy vì kỹ thuật
hàng hải và khả năng của thuyền bè thời đó không cho phép họ đi ra ngoài Ðịa
Trung Hải. Tới thế kỷ này, các kiến thức về đóng thuyền đã tiến triển và người
ta đã phối hợp nhiều kinh nghiệm đóng thuyền của hai miền Ðịa Trung Hải và Bắc
Âu để chế tạo ra một loại thuyền có tên là Galleon. Loại thuyền này vừa có vỏ
chắc chắn, lại vừa dài như các chiến thuyền của hải tặc Viking. Thuyền được
trang bị bằng 3 hay 4 cánh buồm với cả bánh lái. Vào giữa thế kỷ 15, loại
thuyền Galleon này là của các nhà thám hiểm và người ta thấy thứ thuyền này
dong buồm tại nhiều nơi, cả trên mạn biển bắc lẫn mạn biển nam.
Ngoài kỹ thuật
đóng thuyền đã được các nhà đi biển nghiên cứu, thuật Hàng Hải cũng bắt đầu trở
thành một môn học có quy củ. Sau khi địa bàn được dùng vào việc đi biển, thì
đồng hồ và dụng cụ đo vận tốc cũng được dùng tới. Hàn Lâm Viện đầu tiên về
thuật Hàng Hải được Hoàng Tử Henry của Bồ Ðào Nha thiết lập tại Vịnh Sagres.
Henry nhà Hàng Hải tập trung quanh mình nhiều nhà đi biển và các học giả thuộc
nhiều quốc gia và tôn giáo khác nhau để ghi chép tất cả các yếu tố về biển cả,
về gió, thủy triều, các giòng nước, bản đồ và cả về các miền đất xa xôi. Hoàng
Tử Henry lại phái các con tầu thám hiểm đi về phương nam và phương tây để tìm
kiếm các miền đất lạ. Do tinh thần quốc gia cực đoan, những điều hiểu biết về
đại dương của người Bồ đều bị giữ kín.
Người Bồ đã thám
hiểm và biết tới nhiều nơi trước người của các nước khác tại châu Âu. Các con
thuyền Bồ Ðào Nha đã tới châu Mỹ vào thế kỷ 15, lập ra thuộc địa tại các hải
đảo Madeiras và Azores vào khoảng các năm 1420 & 1430 và đã thám hiểm miền
tây châu Phi. Năm 1445, họ đã tới mũi Verde, phát triển buôn bán tại Tây Phi và
15 năm sau, tới Sierra Leone. Sau này, Dias vòng qua Mũi Hảo Vọng và Vasco da
Gama tới Ấn Ðộ vào năm 1498. Chẳng bao lâu, người Bồ dần dần kiểm soát được Ấn
Ðộ Dương khi trước ở trong tay người Ả Rập, lập thành phố tại Goa và mở mang
việc buôn bán với các miền Ðông Ấn, Thái Lan, Trung Hoa và tới năm 1542, họ đến
tận Nhật Bản.
Việc phát triển
thương mại với phương Ðông của người Bồ khiến cho các quốc gia khác tại châu Âu
thèm muốn. Nhiều người muốn tìm ra một con đường khác để sang châu Á. Ý tưởng
đi vòng trái đất đã được Christophe Colomb thực hiện và sau 4 cuộc hành trình,
Colomb đã khám phá ra Tây Ấn, Venezuela và Trung Mỹ. Cho đến khi qua đời vào
năm 1506, Christophe Colomb vẫn tưởng rằng mình tìm ra được phần ngoài của lục
địa châu Á.
Sự hiểu biết về châu
Mỹ vào thời đó làm cho các nhà thám hiểm chưa thỏa mãn vì mục đích của họ là
tìm ra châu Á. Vì thế vào năm 1519, Magellan được Vua Tây Ban Nha phái đi để
tìm ra một con đường sang Á châu. Magellan đã đi về phía nam và vượt eo biển
nơi mang tên ông trong 38 ngày, sang được Thái Bình Dương và cuối cùng bị thổ
dân Phi Luật Tân giết chết.
Việc tìm ra châu
Mỹ đã khiến cho các nhà hàng hải Tây Ban Nha biết rõ con đường đi về từ Tân Thế
Giới để sau này mang về xứ rất nhiều của cải. Tây Ban Nha giờ đây trở nên giàu
có nhờ vàng, bạc, đồ trang sức cướp được tại châu Mỹ trong khi đó Bồ Ðào Nha
cũng tìm ra được vài vương quốc thịnh vượng tại Mễ Tây Cơ và Peru. Vì thế các
nước tại châu Âu đều quan tâm về sự thành công của hai nước kể trên.
Sau khi Christophe
Colomb tìm ra châu Mỹ, Giáo Hoàng thời đó gốc người Tây Ban Nha, thấy có thể
xẩy ra cuộc tranh chấp do các miền đất mới và thương mại, nên đã ra một sắc chỉ
vào năm 1493 quy định con đường phân chia Ðại Tây Dương, cho phép Tây Ban Nha
quyền thám hiểm và định cư tại phía tây đường giới tuyến, còn Bồ Ðào Nha được
quyền tại phía đông.
Thời bấy giờ, Bồ
Ðào Nha là nước hiễu rất rõ về các miền đất lạ hơn các xứ khác, cho nên các nhà
thám hiểm Bồ vẫn tiếp tục đi về phía tây. Năm 1500, hạm đội Bồ dưới quyền chỉ
huy của Cabral đã tới Ba Tây (Brazil) và nhận xứ này là đất đai của Bồ Ðào Nha.
Một hiệp ước giữa hai nước Tây và Bồ lại được ký kết với sự trung gian của Giáo
Hoàng, ấn định lại đường ranh giới lùi thêm về phía tây, để chấp nhận Ba Tây là
đất đai của Bồ Ðào Nha.
Sắc chỉ năm 1493
của Giáo Hoàng dành độc quyền khai thác Tân Thế Giới cho Tây Ban Nha và Bồ Ðào
Nha đã khiến các quốc gia khác tại châu Âu đứng ra phản đối. Người phản kháng
đầu tiên là Vua Francis I của nước Pháp. Nhà Vua lo lắng cho sự thua kém về lực
lượng hải thuyền của Pháp và đã từng khuyến khích các nhà hàng hải tại bờ biển
hai phía bắc và tây nước Pháp, nhưng sự trợ giúp của nhà Vua không được liên
tục. Tuy nhiên các nhà đi biển người Pháp với các đội thuyền nhỏ, cũng đã đến
được Ba Tây, Newfoundland tại phía tây, Nam Dương tại phía đông và nếu có dịp
thuận tiện, họ thường bắt cóc các con tầu Bồ và Tây Ban Nha. Hai nước sau này
cũng chống trả và tìm cách giữ độc quyền bằng các thủ đoạn rất tàn nhẫn như
treo cổ các nhà hàng hải Pháp tại Lisbone và Seville.
Vào năm 1516, các
căn cứ của Pháp tại Ba Tây bị Bồ Ðào Nha thanh toán rồi Tây Ban Nha tàn sát các
nhà thuộc địa người Pháp tại Florida vào năm 1565. Do chiến tranh tại bên ngoài
và nội chiến tại bên trong, và cũng do lực lượng hùng hậu của Tây Ban Nha và Bồ
Ðào Nha, Vua Francis và các vua kế tiếp không thể tiếp tục ủng hộ các nhà thám
hiểm người Pháp mặc dù có những khám phá mới, chẳng hạn như Jacques Cartier tìm
ra giòng sông Saint Lawrence cho Vua Francis I vào giữa các năm 1534 và 1541.
Nước Pháp cuối cùng tìm cách ký hiệp ước với nước Anh khi đó đã khá hùng hậu
trên biển cả.
4. Hải Quân Anh.
Người Anh thời bấy
giờ tránh đụng độ với các người Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha, nên chỉ phái người
đi tìm đường sang Trung Hoa bằng cách đi về phía đông và tây tại gần Bắc Cực.
Năm 1497, John Cabot và con là Sebastian ra đi với sự chấp thuận của Vua Henry
7, đã tới Labrador, Newfoundland và Nova Scotia, nhưng vì không mang trở về
được vàng bạc hay gia vị, nên cuộc hành trình đã không được Vua nước Anh quan
tâm.
Tới thời Vua Henry
8, cha đẻ của Hải Quân Hoàng Gia, ý tưởng đi về phía đông bắc và tây bắc của
người Anh vẫn được nuôi dưỡng. Sir Hugh Willoughby và Richard Chancellor đã đi
về miền biển phía bắc nước Nga vào các năm 1553 và 1554, và tuy bị thiệt mạng
tại nơi sau này, hai nhà thám hiểm kể trên cũng đã khiến cho người Anh sau này
mở mang thương mại với người Nga.
Tới các năm 1570
và 1580, vài nhà hàng hải Anh lại theo đường cũ của Cabot. Sir Martin Frobisher
và John Davis đã đến miền đất Baffin và các eo biển Hudson và Davis. Năm 1583,
Sir Humphrey Gilbert nhận Newfoundland làm miền đất của nước Anh nhưng ông ta
từ trần trên đường về nước.
Vào hậu bán thế kỷ
16, Hải Quân Anh mạnh dần, nên đã đụng độ với người Tây Ban Nha và tìm cách
cướp phá những nơi định cư cùng các con tầu chở của cải của các nước khác. Sir
John Hawkins, trước kia là một tay cướp biển ngang tàng và lý tài, đã gặp rắc
rối khi buôn bán dân nô lệ châu Phi tại các hòn đảo Trung Mỹ. Sau này ông ta
trở nên Thủ Quỹ của Hải Quân Anh và có công trong việc đóng và võ trang các con
tầu chống Hạm Ðội Armada.
Hải Quân Anh còn
có nhiều "hải tặc quân tử" mà mẫu người là Sir Francis Drake. Ông này
là cháu của Sir Hawkins, đã phục vụ dưới quyền Hawkins khi còn trẻ. Năm 1572,
Drake cướp phá thành phố Nombre de Dios của Tây Ban Nha rồi dùng tiền của cướp
được để thành lập một hạm đội gồm 5 con tầu. Drake cùng hạm đội này vượt eo
biển Magellan ra Thái Bình Dương là nơi chưa hề có một con tầu Anh nào đi tới,
cướp phá nhiều thuyền bè rồi đi ngược lên miền California. Sir Francis Drake đã
vượt qua Thái Bình Dương, tức là đã đi vòng quanh thế giới và trở lại Plymouth
vào năm 1580 với một con tầu duy nhất còn lại. Ông ta được Nữ Hoàng Elizabeth I
phong Hiệp Sĩ trên con tầu này.
Sir Francis Drake
vẫn tiếp tục cướp phá tài sản của Tây Ban Nha. Năm 1586, hai thành phố Santo
Domingo và Cartagena bị đánh phá rồi vào năm sau, với 30 con tầu, ông ta phong
tỏa và phá hủy nhiều tầu bè Tây Ban Nha tại Vịnh Cadiz, vì thế chiến tranh đã
trở nên chính thức. Năm 1588, Tây Ban Nha phái đi một hạm đội hùng hậu chưa
từng có, gồm 132 tầu với 3,165 khẩu đại bác và 30,000 quân sĩ, để kiểm soát Eo
Biển Manche, hầu sửa soạn cho cuộc tấn công. Từ Plymouth, 102 chiến thuyền Anh
cũng ra nghênh chiến với nửa số binh lính. Vào thời bấy giờ, các chiến thuyền
Anh được coi như vững chắc và di chuyển nhẹ nhàng nhất, lại được điều khiển do
các nhà hàng hải tài giỏi như Hawkins, Drake và Frobisher dưới quyền tổng chỉ
huy của Ðề Ðốc Lord Howard of Effingham. Trong khi đó người Tây Ban Nha không
quen với biển lạ, gió lạnh và khí hậu miền Bắc Âu, lại gặp phải phong ba, vì
thế hạm đội Armada tan rã, mang theo sự suy tàn của lực lượng Hải Quân Tây Ban
Nha.
5. Hải Quân Hòa Lan.
Trong khi Tây Ban
Nha và Bồ Ðào Nha suy yếu về khả năng hàng hải thì Hòa Lan lại bắt đầu tiến
triển. Người Hòa Lan vốn dĩ là loại thủy thủ cần cù, chuyên về nghề đánh cá và
qua nhiều thế kỷ, họ cũng đã thâu lượm được nhiều kiến thức về kỹ thuật đóng
tầu và thuật hàng hải. Nhờ nghề đánh cá, người Hòa Lan trở nên giàu có hơn,
nhưng họ vẫn bị người Tây Ban Nha chèn ép và bị gọi là "những kẻ hành khất
trên đại dương".
Từ năm 1570, người
Hòa Lan bắt đầu chống lại người Tây Ban Nha bằng chiến tranh du kích rồi đến
cuối thế kỷ 16, giành được độc lập, một phần cũng là nhờ sự giúp đỡ từ nước
Anh. Khi xứ Hòa Lan bắt đầu cường thịnh thì các đoàn thám hiểm Hòa cũng được
phái đến những miền đất lạ. Người Hòa Lan đã tìm ra biển Barents và một đoàn
thám hiểm Hòa Lan do một người Anh dẫn đầu đã tới giòng sông Hudson. Cũng do sự
giúp đỡ của nước Anh, người Hòa Lan đã chiếm Công Ty Thương Mại Ðông Ấn của Bồ
Ðào Nha và Công Ty Ðông Ấn Hòa Lan được thành lập vào năm 1602, sau Công Ty
Ðông Ấn Anh Cát Lợi hai năm. Như vậy các công cuộc thám hiểm các đại dương và
những miền đất mới đã mở đường cho các công ty thương mại và việc thiết lập các
thuộc địa.
Sau khi người Hòa
Lan loại dần được người Bồ tại miền Ðông Ấn thì người Anh cũng giảm bớt ảnh
hưởng tại nơi này. Các công ty thương mại Hòa Lan dần dần trở nên một công cụ
của chính phủ. Hòa Lan chiếm Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) làm thuộc địa và
đặt căn cứ tại các hòn đảo Molucca, lại chiếm độc quyền mậu dịch với Nhật Bản.
Vào khoảng năm 1625, người Hòa Lan đã buôn bán với các nước Pháp, Anh, Ý, Bắc
Phi và các quốc gia ở dọc theo men biển từ Hy Lạp đến Ai Cập. Tới năm 1621,
Công Ty Tây Ấn Hòa Lan được thành lập và từ đó, nhiều hòn đảo thuộc miền Trung
Mỹ trở thành thuộc địa của Hòa Lan, kể cả bờ biển Bắc Mỹ trong đó có Tân
Amsterdam (miền đất New York bây giờ) mua lại của người Da Ðỏ vào năm 1626 với
giá 24 đô la (60 guilders).
Sự thịnh vượng của
Hòa Lan là niềm đố kỵ của nhiều quốc gia tại châu Âu trong đó có nước Anh. Dưới
thời Cromwell, nước Anh đã có một lực lượng hải quân mạnh, thêm vào đó các
thuộc địa Anh cũng dần dần phát triển hơn. Sau năm 1630, đã có hàng ngàn người
định cư tại miền New England và tới năm 1664, vùng đất New York của người Hòa
Lan bị người Anh xâm chiếm trong khi thành phố Bombay của Ấn Ðộ cũng vào tay
người Anh cùng với nền thương mại về gia vị. Sự tranh chấp giữa nước Anh và
nước Hòa Lan càng ngày càng rõ rệt, ngay cả trên mặt biển.
Trong 20 năm kể từ
1652, Hòa Lan và Anh Quốc cố gắng tìm cách chiếm quyền bá chủ. Phe Hòa Lan có
các đô đốc lừng danh như Maarten Tromp và con là Cornelis, như Michiel de
Ruyter, còn Anh Quốc có Robert Blake. Các trận hải chiến vẫn diễn ra nhưng chưa
phân thắng bại. Năm 1667, Ðô Ðốc De Ruyter đã cho lực lượng hải quân vào tận
cửa sông Thames, phóng hỏa thành phố London, phá hủy gần hết hạm đội Anh tại đó
và bắt được cả Soái Hạm Royal Charles. Anh Quốc gần đi tới độ suy tàn về hải
lực nếu không có sự dẫn đạo của các bậc tài giỏi như Hầu Tước York, Vua James
II và Samuel Pepys, Bộ Trưởng Hải Quân và cũng là người đã quyên tiền đóng tầu,
cải cách Hải Quân và đặt nền móng cho sự hùng hậu của Hải Quân Anh sau này.
6. Hải Quân Pháp.
Nước Pháp trước
kia cũng đã có một hải lực khá mạnh nhưng vì những biến cố trong nước, Hải Quân
Pháp không được trợ giúp. Vào đầu thế kỷ 17, Hồng Y Richelieu đã cố gắng dựng
lại cho nước Pháp một lực lượng về hàng hải nhưng rồi kết quả không được lâu dài.
Tới khi Jean Baptiste Colbert có quyền hành thì nước Pháp chỉ có 400 thương
thuyền so với 4,000 con tầu của nước Anh và 16,000 tầu của Hòa Lan. Mặc dù sự
ác cảm với hải lực của Vua Louis 14, Colbert cũng đã đạt được nhiều thành tích
trong việc tạo nên một lực lượng hải quân hùng hậu gồm hơn 4,000 tầu. Colbert
đã dùng nhiều ý tưởng của người Anh và Hòa Lan, và mượn cả các chuyên viên
ngoại quốc. Cách tổ chức nội bộ cũng được cải tổ cùng nhiều hải cảng được củng
cố như Toulon, Rochefort, Le Havre, Brest, Dunkerque. Kỹ thuật đóng tầu biển
của nước Pháp được coi như tiến bộ nhất thời bấy giờ.
Colbert còn khuyến
khích phát triển thuộc địa, lập các xưởng máy của Pháp tại Ấn Ðộ, chiếm Guiana
và Madagascar, hậu thuẫn cho LaSalle nới rộng các biên giới của nước Pháp tại
xứ Canada và miền Mississippi. Hạm đội của nước Pháp dần dần đứng hàng thứ hai
sau Hải Quân Anh và vào năm 1676, Ðô Ðốc Duquesne đã đánh thắng và bắn tử
thương Ðô Ðốc Michiel de Ruyter trên Ðịa Trung Hải. Vào năm 1690, Hạm Ðội Pháp
lại chiến thắng người Anh và người Hòa Lan tại Beachy Head.
Sang đầu thế kỷ
18, Hải Quân Pháp bị yếu dần và nước Anh trở nên bá chủ trên mặt biển. Hải Quân
Anh thường phong tỏa các lực lượng khác và chiếm dần các thuộc địa. Sau Hòa Ước
Utretch năm 1713, nước Anh đã chiếm giữ Gibraltar, Minorca, Acadia và
Newfòundland. Nước Anh còn thừa hưởng tất cả đất đai của đế quốc Pháp tại Bắc
Mỹ sau cuộc Chiến Tranh Bẩy Năm, kết thúc vào năm 1763 bằng sự thất bại của
người Pháp tại nhiều nơi. Từ đây, không những nước Anh trở nên bá chủ trên mặt
biển mà còn là quốc gia có nhiều thuộc địa nhất.
Vào thế kỷ 18,
nhiều trận hải chiến đã diễn ra trên mặt biển và các hạm đội đối đầu với nhau
có khi dài đến 5 dậm. Các con tầu chiến thời đó thuộc nhiều loại, hạng nhất có
90 khẩu đại bác, hạng nhì 80 khẩu. . . Các sĩ quan hải quân thường là các nhà
quý phái thuộc những gia đình đã từng chuyên môn về hàng hải từ nhiều thế hệ.
Vào giữa thế kỷ
18, nước Anh hầu như hoàn toàn chiến thắng trên mặt biển. Nhưng tới năm 1775,
cuộc nổi dậy của các thuộc địa Anh tại châu Mỹ đã là một khúc quanh lịch sử.
Các tầu Anh bị Pháp và Hòa Lan chặn đánh tại châu Âu và Tây Ấn. Năm 1781, từ
hải cảng Brest có hai hạm đội Pháp ra khơi, một do Pierre André de Suffren chỉ
huy, đã đánh bại các tầu Anh tại mọi lần đụng độ và hạm đội này có thể chiếm Ấn
Ðộ nếu không có việc ký kết. Hạm đội thứ hai do Ðô Ðốc De Grasse đi về phương
đông, vây hãm Hải Quân Anh tại Chesapeake, Bắc Mỹ.
Tới cuối thế kỷ
19, các cuộc cách mạng Pháp đã làm cho Hải Quân Pháp suy tàn, các sĩ quan kinh
nghiệm hoặc bị bắt bớ, hoặc chạy khỏi xứ. Tới khi Napoléon nắm quyền tại Pháp,
có lẽ Ðại Ðế đã nghĩ rằng sự đe dọa Ấn Ðộ và con đường thương mại với châu Á
của nước Anh có thể ảnh hưởng tới tiềm lực chiến đấu của người Anh, vì thế cuộc
viễn chinh Ai Cập được thực hiện. Kết quả là Hạm Ðội Pháp bị Ðô Ðốc Anh Horatio
Nelson đánh tan tại Vịnh Abukir. Ðô Ðốc Nelson còn cho tầu bắn phá Copenhague
và vào năm 1805, đã đánh bại quân Pháp và quân Tây Ban Nha trong Trận
Trafalgar. Tới khi Cuộc Chiến Tranh 1812 chấm dứt và Ðại Ðế Napoléon bị đầy ra
đảo Saint Hélène rồi thì nước Anh lại một lần nữa ngự trị trên mặt biển.
Do sự phát triển
về kỹ thuật và sau các phát minh về cơ khí rất quan trọng như máy hơi nước, kỹ
thuật đóng tầu được cải tiến và từ cuối thế kỷ 18, các nhà kỹ thuật đã tìm cách
áp dụng vào tầu thuyền các hệ thống cơ khí, mở đầu cho một kỷ nguyên mới về tầu
thủy rồi sau này về tầu ngầm.
Phạm Văn Tuấn
Thursday, October 26, 2000