HỘI TRÙNG
DƯƠNG HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA
tại thành
phố Dallas-Fort Worth, tiểu bang Texas, U.S.A.
HOÀNG SA ƠI ! HOÀNG SA ƠI ! |
HOANG SA |
Hoàng Sa ơi! Ðảo Hoàng Sa ơi! Một mảnh giang sơn đã mất rồi Ta như mất cả phần da thịt Tổ Quốc còn đau một góc trờI. |
Hoang Sa! Hoang Sa! My beloved
land! A piece of Motherland in the
open sea has gone As someone cut off a part of my
body Oh! The pain still hovering
over my country! |
Vẫn nhớ Hoàng Sa! Ôi Hoàng Sa! Trận chiến năm xưa máu lệ nhòa Sao không giăng trận cầu phao
cũ? Chôn xác quân thù, trận Ðống
Ða! |
Hoang Sa! Hoang Sa! Never be
forgotten It seems tears mixing blood
still in the naval battle Why not a setting up a floating
bridge as in Hong Ha river? As Dong Da battle once sinking
the enemies ... in old years |
Hoàng Sa! Hoàng Sa! Ta vẫn đau Biển như còn đỏ máu loang mầu Máu ai thấm giữa lòng hải đảo? Xương trắng ai chìm giữa biển
sâu? |
Hoang Sa! Hoang Sa! I feel my
pain I feel the sea water still
blood soaking Whose blood covered our belove
island Whose bones gone down to the
floor of the ocean? |
Hoàng Sa! Hoàng Sa! Ðã mấy
trăng? Sao không là sóng dậy Bạch
Ðằng? Sao không báu kiếm, lời Sát
Ðát? Sao sóng muôn trùng không thét
vang? |
Hoang Sa! Hoang Sa! I miss you
seasons then seasons |
Lê Khắc Anh Hào Canada 1/1/2001 vnle@axionet.com |
Lê Khắc Anh Hào Canada 1/1/2001 vnle@axionet.com |
THUYẾT
TRÌNH VỀ TRƯỜNG SA & HOÀNG SA
LS Nguyễn
Hữu Thống
Nhân kỳ Hội Nghị Diễn Ðàn Khu Vực
của Hiệp Hộ.i Các Quốc Gia Ðông Nam Á (ASEAN) họp tại Brunei năm l995, Luật Sư
Nguyễn Hữu Thống nhân danh Hội Luật Gia Việt Nam tại California đã gởi văn thư
cho các nguyên thủ quốc gia trong tổ chức ASEAN, đề nghị đưa vụ tranh chấp
Trường Sa ra Tòa Án Quốc Tế, đồng thời đổi tên Biển Nam Hoa (South China Sea)
thành Biển Ðông Nam Á (Southeast Asia Sea).
Và sau đây là bài thuyết trình
của tác giả về vụ Trường Sa và Hoàng
Sa.
Trường Sa, Hòang Sa là một vấn đề rối mù. Rối mù về
địa lý, về pháp lý và nhất là do chiến thuật hỏa mù của Trung Cộng. Do đó, chúng ta cần đơn gỉản vấn đề. Trình bày đơn gỉản một vấn đề phức tạp là
một việc chẳng dễ chút nàọ Nhưng đó là
việc mà chúng ta phải làm.
Bài này chia làm 2 phần:
Ðịa lý và Pháp lý.
I. ÐIA LÝ.
Dưới triều vua Minh Mạng, nho sĩ
Lý Văn Phức được cử đi sứ Trung Hoa bằng đường biển. Thuận buồm xuôi gió Tây Nam, thuyền chở phái đoàn sứ giả từ Huế
hướng về Phúc Kiến qua ngả Hoàng SA.
Chứng kiến những cảnh đắm thuyền
vì mắc cạn hay vì bảo tố, Lý văn Phức có lời cảm khái:
Vạn Lý
Trường Sa dường tuyệt hiểm
Thất Châu
sóng cuộn hận anh đào
Sứ giả Lý Văn Phức đã lầm lẫn
giữa Hoàng Sa và Trường Sa. Ðể có một ý
niệm tổng quát, chúng ta có thể hình dung Hoàng Sa gồm 13 đảo tí hon tọa lạc
tại các vĩ tuyến 17-15 Bắc, phía đông khu Trị, Thiên, Nam, Ngãi; Trường Sa tại các
vĩ tuyến 12-7 Bắc, dọc từ Cam Ranh về Cà Mau; và ngang từ thềm lục địa Việt Nam
qua thềm lục địa Phi Luật Tân. Trường
Sa chiếm một miền biển rộng tới 180 ngàn dậm vuông (350 hải lý mỗi bề). Hàng trăm đảo, cồn, đá bãi nhỏ síu nằm rải
rác trên biển cả, không dân cư, không nước ngọt, không cây cối, dưới trời nắng
gắt với gió lốc và bão lớn.
Thực tế mà xét, trong số 500 đảo
cồn, đá, bãi chỉ có khỏang 30 cao địa có địa danhvà 20 đơn vị đá chìm và bãi
ngầm. Số đơn vị này là đối tượng tranh
chấp của 7 quốc gia: Trung Cộng và Ðài Loan; Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai,
Brunei và Nam Dương.
Từ 1974 Trung Cộng đã chiếm đóng
tòan thể khu hải phận Hòang Sa gồm 13 đảo thuộc hai nhóm:
Có 7 đảo về phía Ðông Bắc, Nhóm
An Vĩnh/Tuyên Ðức (Amphitrite, tên một tàu Pháp bị đắm), như Ðảo Phú Lâm (Woody
Island) do Bộ Chỉ Huy Trung Cộng trú đóng.
Ðảo hình bầu dục, diện tích 1.3 km2. Nếu là hình chữ nhật, bề dài sẽ là 1300m và
bề ngang 1000m (bằng một công viên nhỏ).
Phú Lâm là đảo lớn nhất tại Hoàng Sa và Trường Sa. So với Phú Quốc (diện tích 568 Km2),
Phú Lâm bằng 1/400 Phú Quốc.
6 đảo về phiá Tây Nam thuộc nhóm
Lưỡi Liềm (Crescent, tiếng Pháp là Croissant), gồm có các Ðảo Hoàng Sa (Pattel
Island) nơi Bộ Chỉ Huy Việt Nam Cộng Hòa trú đóng trước kia. Hoàng Sa đo được 0.56km2 bằng 1/2 Phú Lâm và
bằng 1/1000 Phú Quốc. Nếu có hình chữ
nhật Hoàng Sa sẽ có chiều dài 800m và chiều ngang 700m (bằng một khuôn viên
trường tiểu học). Ðảo Trí Tôn tọa lạc
gần bờ biển Quãng Ngãi, cách Cù Lao Ré 123 dậm.
Vùng biển Trường Sa rộng gấp 10
lần Hoàng Sa, nhưng chỉ có 9 tiểu đảọ
Việt Nam hiện chiếm 3 đảo: Ðảo
Trường Sa (Spratley Island), nơi Bộ Chỉ Huy Việt Nam trú đóng, Ðảo Nam Yết (Namyit Island) và Ðảo Sinh Tôn (Sincowe Island).
Phi Luật Tân chiếm 5 đảo là: Ðảo Bình/Nguyên (Flat Island), Ðảo Vĩnh Viễn
(Nanshan Island), Ðảo Bến Lộc (West York Island), Ðảo Loạ.i Tá (Loaita Island)
và Ðảo Thị Tứ (Thitu Island).
Ðài Loan chiếm Ðảo Ba Bình/Thái
Bình (Itu Aba Island), Ðảo Trường Sa diện tích 0.13km2 (400mx350m), nhỏ bằng
1/10 Phú Lâm, và bằng 1/4000 Phú Quốc.
Cuối năm l999, Ðài Loan đã rút quân khỏi đảo Thài Bình, hòn đảo lớn nhất
tại Trường Sa. Ngòai ra Việt Nam còn
chíêm 3 cồn là An Bang (Amboyna Cay), Song Tử Tây (SouthWest Cay) và Sơn Ca
(Sand Cay), cộng với 7 đá nổi, 9 đá chìm
và bãi ngầm.
Phi Luật Tân chiếm thêm 3 cồn, 2
đá nổi và 8 đá chìm.
Tại Trường Sa, Trung Cộng chỉ
chiếm 2 đá nổi là Ðá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) và Ðá Ga Ven (Gaven Reef), và
6 đá chìm.
Trong số 28 cao địa, Việt Nam
chiếm 13 cao địa (cao hơn mặt nước), Phi chiếm 10 và Trung Cộng chíêm 2 (đá nổi).
Trong số 53 đơn vị có địa danh,
Việt Nam chiếm 22, Phi chiếm 18, và Trung Cộng chiếm 8. Ðây là những hòn đảo tí hon. So với chiều dài bờ biển Việt Nam, mật độ
dân cư và sinh hoạt ngư nghiệp tại đất liền, các đảo này quá nhỏ bé, chỉ được
gọi là tiểu đảo (islet).
Câu hỏi đặt ra là: Tại sao từ 1974 khi Trung Cộng chiếm cả
Hoàng Sa và nhất là từ 1988 khi Trung Cộng xâm lấn Trường Sa, họ lại không thừa
thắng xông lên để chiếm thêm một số hải đảo của Việt Nam hay Phi Luật Tân, mà
phải lấy một hòn đá (Ðá Chữ Thập) làm địa điểm chỉ huy.
Thực ra, những hòn đảo tí hon này
không phải là đối tượ.ng tranh chấp của Trung Cộng. Bắc Kinh còn muốn lưu lại chút nhân tình, không dám cạn tàu ráo
máng. Họ chỉ muốn thương thảo với các
quốc gia duyên hải, đề nghị phương thức khai thác chung dầu khí. Không phải khai thác chung tạI các hải đảo
ngòai khơi (biển quá sâu, không đủ kỹ thuật thăm dò, quá tốn kém mà chưa biết
có bao nhiêu dầu), mà là khai thác chung tại thềm lục địạ Do đó, họ chủ trương đàm phán song phương
thay vì đa phương. Ðiều mằ họ lo ngại
nhất là các quốc gia Ðông Nam Á (như Việt Nam hay Phi Luật Tân) đưa nội vụ ra
Tòa Án Trọng Tài hay Tòa Án Quốc Tế.
II. PHÁP LÝ
Ðịa cầu gồm 3 phần đất và 7 phần nước. Nếu có luậ.t quốc tế cho các lãnh thổ thì cũng phải có luật quốc tế cho vùng lãnh hảị Năm 1982,
119 quốc gia ký Công Ước Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển (Law of the Sea Convention, Los Convention), tới tháng 11-
1993 đã có 60 quốc gia phê chuẩn Công Ước trong đó có Việt Nam. Và một năm sau, tháng 11-1994, Công Ước có
hiệu lực chấp hành. Tới nay đã có hơn 70 quốc gia phê chuẩn trong số 170
quốc gia kết ước và gia nhập.
Luật Biển 1982 định nghĩa về nội hải, đường căn bản, lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa như sau:
1. Nội Hải, Biển Lịch Sử và Ðường Căn Bản (internal waters, historic
waters and baselines).
Toà Án Quốc Tế dịnh nghĩa “biển lịch sử” là nội hải căn cứ vào
những chứng liệu có giá trị về mặt lịch sử.
Muốn trở thành biển lịch sử phải hội đủ 3 điều kiện sau đây:
a) Quốc gia duyên hải đang
hành sử chủ quyền.
b) Sự hành sử chủ quyền có
tính cách liên tục và trường kỳ.
c) các quốc gia (tiếp cận
và đối diện) thừa nhận sự hành sử chủ quyền của quốc gia duyên hảị Ðiều 8 Luật Biển 1982 nhấn mạnh rằng biển
lịch sử chỉ là nội hải, nghĩa là nằm tại đãt liền, bên trong bờ biển hay Ðường
Căn Bản. Như vậy Biển lịch sử không thể
là Biển Nam Hải cách bờ biển Hoa Lục tới 2000 cây số.
2. Tại Lãnh Hải 12 hải lý
(territorial sea), các tàu ngoại quốc được quyền "ờthông quá vô tư", và
phải tôn trọng trật tự và an ninh của quốc gia duyên hảị
3. Tại Vùng Ðặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý đánh cá (Exclusive Economic
Zone, 200-mile-fishery zone), các quốc gia duyên hải có nghĩa vụ bảo tòan và
nếu cần, chia sẻ phần tôm cá không khai thác hết cho các quốc gia kế cận không
có bờ biển (như Lào).
4. Cũng như Vùng Ðặc Quyền Kinh Tế (đánh cá), Thềm Lục Ðịa
(Continental Shelf) dài 200 hải lý là vùng biển nối tiếp Lãnh Hải và Ðường Căn
Bản. Ngòai ra Thềm Lục Ðịa Ðịa Lý (hay
Nền Lục Ðịa: Continental Margin) có thể
kéo dài tới 350 hải lý, nếu về mặt địa hình, đáy biển là sự nối tiếp tự nhiên
của thềm lục địa từ đất liền ra ngòai biển (trường hợp bờ biển Việt Nam) (Ðiều
76 Luật Biển 1982). Khác với vùng đặc quyền
kinh tế (đánh cá), thềm lục đị.a thuộc chủ quyền tuyệt đối của quốc gia duyên
hải trong việc khai thác dầu khí. Quyền
cùa quốc gia duyên hải cũng không tùy thuộc vào điều kiện chiếm cứ (occupation)
hay công bố minh thị. Do đó việc Trung Cộng chiếm đóng một số đảo và đơn vị tại
Hoàng Sa và Trương Sa không thể có tác dụng tước đọat chủ quyền của Việt Nam và
Phi Luật Tân tại Thềm Lục Ðịa của 2 quốc gia nàỵ
5. Hải Ðảo và Quần Ðảo: Cũng như đãt liền, hải đảo được quyền có
lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý. Ðảo được định nghĩa là giải đãt thiên nhiên
bao bọc bởi nước và cao hơn mực nước thủy triềụ Tuy nhiên theo án lệ, các
đảo không có dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế, không được hưởng quy chế
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý. Theo án lệ cố định, Tòa Án Quốc Tế La Haye đã không đếm xỉa đến
những tiểu đảo trong việc phân ranh thềm lục địa giữa các quốc gia tiếp cận hay
đối diện. Án lệ North Sea Continental Shelf cases l969; án lệ Thềm Lục Ðịa
Anh Pháp (l977), án lệ Guinea k/ Guinea Bissau (l985). Lý do là vì các đảo này không có thường dân
cư ngụ và chỉ là bãi đậu chim. (Có lẽ
tòa nghĩ rằng chim không cần đến 200 hải lý để bói cá, mà cũng không biết khai thác
dầu khí). Ðối với tất cả các đảo tí hon
và đá nổi tại Hòang Sa và Trường Sa, chúng ta nghĩ rằng Tòa Án sẽ không công
nhận đó là "đảo", vì 3 lý do:
- không có thường dân cư
ngụ.
- không thể tự túc về kinh
tế.
- quá nhỏ bé và quá rải
rác.
Nếu có hình chữ nhật, Hoàng Sa dài chừng 800m và Trường Sa
400m. Ðó là những hòn đảo tí hon nằm
rải rác trong một vùng biển Ðông Nam Á rộng hơn 180 ngàn dậm vuông. Tổng số diện tích các đảo cồn đá bãi Trường
Sa là 4 dậm vuông.
Trong án lệ Lybia/Malta (l985) Tòa án không đồng hóa đảo Malta với
lục địa dầu rằng Malta có 350 ngàn dân cư ngụ trên một diện tích 122 dậm vuông.
Theo định nghĩa, quần đảo bao gồm các hải đảo nằm san sát bên nhau
và có diện tích ít nhất bằng 1/9 vùng biển nơi tọa lạc.
Như vậy:
1) Hoàng Sa Trường Sa
không phải là "quần đảo" theo luật.
2) Các đảo tí hon (trên 20
hòn) tại Hòang Sa Trường Sa không phải
là "đảo" và không được hưởng quy chế 200 hải lý để đánh cá và khai
thác dầu khí.
Trước khi có các quân đội đến chiếm đóng (của Việt Nam, Trung
Cộng, và Phi Luật Tân), các đảo này chỉ là những bãi chim đậụ Hoạt động kinh tế nếu có, chỉ là khai thác
phân chim.
Ngày nay có thêm một số binh sĩ trú phòng Trung Cộng ngụy trang
dướI hình thức ngư dân để làm lạc hướng dư luận quốc tế.
ÐẤU LÝ VÀ ÐẤU PHÁP:
Trong thập niên l960, cuộc Cách Mạng Văn Hoá đã phá nát Trung Hoa
về văn hóa, kinh tế, nhân sự và tinh thần.
Qua thập niên l970, Trung Hoa bắt đầu phục hồị Ðược gia nhập Liên Hiệp Quốc thay Ðài Loan năm l971, Trung Hoa
nghiễm nhiên trở thành một ngũ cường, hội viên thường trực của Hội Ðồng Bảo An
có quyền phủ quyết. Sau khi thiết lậ.p
bang giao với Hoa Kỳ năm l979, Trung Hoa hội nhập vào Cộng Ðồng quốc tế. Từ đấy chính sách "mèo đen, mèo
trắng" của Ðặng Tiểu Bình được thực thi để thay thế xã hội chủ nghĩa bằng
chủ nghĩa tư bản.
Năm l982, phái đòan Trung Hoa đến Montego Bay tham dự Ðại Hộ.i
Liên Hiệp Quốc kỳ 3 về Luật Biển. Vì
Anh Mỹ không ký Công Ước, 3 ngũ cường còn lại Nga-Pháp-Hoa đóng vai chủ chốt
trong Ðại Hộị Tự ái quốc gia được thỏa
mãn, Trung Hoa hoan hỉ ký Công Ước. Ký
xong, Bắc Kinh mớI thấy lo! Ký Công Ước thì phải theo Công Ước. Những điều khỏan trong Công Ước đã rõ
rệt. Các quốc gia duyên hải chỉ được
hưởng quy chế 200 hải lý về đặc quyền kinh tế hay thềm lục đýạ Từ quần đảo
Hoàng Sa Trường Sa về hoa lục phải qua vùng biển sâu tới 2 hay 3, 4 ngàn
mét. Vì đáy biển không phải là sự tiếp
nối tự nhiên của lục địa từ đãt liền chạy ra biển, Trung Hoa không có hy vọng
nới rộng thềm lục địa từ 200 tới 350 hải lý như trường hợp Việt Nam. Hơn nữa, toàn thể các đảo Trường Sa cách bờ
biển Trung Hoa từ 500 đến 1100 hải lý, nên không nằm trong thềm lục địa của
Trung Hoạ Các đảo Hoàng Sa cũng cách
lục đýa Trung Hoa hơn 200 hải lý. Hoàng
Sa và Trường Sa có triển vọng có dầu khí do các chất hữu cơ tích lũy từ các
nguồn nước phù sa sông Hồng Hà và sông Cửu Long (con sông dài nhất Ðông Nam Á)
từ cao nguyên Tây Tạng đổ ra biển từ cả triệ.u năm naỵ
Trong khi đó, tại bờ biển Việt Nam, thềm lục địa địa lý hay nền
lục địa chạy thoai thoải từ dãy Trường Sơn ra Hòang Sa về phía đông Trị, Thiên,
Nam, Ngãị Ðộ sâu nhất quanh đảo Hoàng
Sa là 500m. Về mặt địa hình, Hòang Sa
là một hành lang của Trường Sơn chạy từ cù lao Ré ra biển, hay là những bình
nguyên của thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Từ 1925, các nhà địa chất học quốc tế như Tiến Sĩ Khoa Học Ạ
Krempf, Giám Ðốc Viện Hải Học Ðông Dương, sau 2 năm nghiên cứu và đo đạc đã lập
phúc trình và kết luận:
"V" MẶT ÐIA CHẤT, NHỮNG ÐẢO HOÀNG SA LÀ
MÔT THÀNH PHẦN CỦA VIỆT
NAM" (Géologiquement les Paracels
font partie du Vietnam). Tại Trường Sa
cũng vậỵ Về mặt địa hình đáy biển,
Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của thềm lục địa Việt Nam. Tại bãi Tứ Chính nơi khai thác dầu khí, biển
sâu không tới 400m, trong khi trong vùng quanh đảo Trường Sa và cồn An Bang (do
Việt Nam chiếm cứ) độ sâu chỉ tớI 200m.
Bãi Tứ Chính cách bờ biển Việt Nam chừng 160 hải lý và cách lục địa
Trung Hoa lối 900 hải lý. Trường Sa
cách bờ biển Trung Hoa bằng rãnh biển sâu tới 3,4 ngàn mét, chỗ sâu nhất đo
được 4683m.
Bị ràng buộc bởi Luật Biển với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
đýa 200 hải lý, Trung Hoa tung ra chiến dịch hỏa mù gây bất ổn, tranh chấp lung
tung, tuần tiễu, phóng hỏa tiễn, lấn chiếm bừa bãi tạ.i thềm lục đýa gần bờ
biển để gây tiếng vang. Mục đích để phá
rối an ninh trật tự, làm cản trở giao thông trên mặt biển, tạo áp lự.c quốc tế,
hù dọa và khuyến dụ các quốc gia Ðông Nam Á hãy gác vấn đề tranh chấp chủ quyền
hải đảo để cùng nhau KHAI THÁC CHUNG DÂÙ KHÍ TẠI TH"M LUC ÐIẠ.
Chiến dịch Hõa Mù của Bắc Kinh
nhằm 3 đối tượng:
Ạ Biển Lịch Sử hay Lưỡi
Rồng Trung Quốc.
B. Các Hải Ðảọ
C. Thềm Lục Ðịạ
Ạ BIỂN LICH SỬ hay LƯỠI RỒNG TRUNG QUỐC.
Năm 1982, sau khi ký Công Ước về Luật Biển, Bắc Kinh tập hợp
"400 học giả Trung Quốc, ngày đêm nghiên cứu, thảo luận trong suốt 10 năm
và đã đi đến kết luận rằng Biển Nam Hải là Biển Lých Sử của Trung Hoa từ hơn
hai ngàn năm nay". Rồi họ hội nghị
với "l00 nhà trí thức Ðài Loan để nhất trí xác nhận sự kiện lịch sử
nàỵ"
Trong khi đó hàng chục giáo sư Mỹ gốc Hoa tại các đại học Hoa Kỳ
từ trên 10 năm nay đã dòng dã trên các tạp chí địa lý, lịch sử, hải học Hoa Kỳ
để yểm trợ lập trường "Nam Hải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc". Lưỡi Rồng Trung Quốc nằm sát bờ biển Quãng
Ngãi 40 hải lý, cách đảo Natuna (Nam Dương) 30 hải lý và cách Palawan (Phi Luật
Tân) 25 hải lý. Nó chiếm trọn 3 tuí dầu
khí Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi Luật Tân và
Natuna của Nam Dương.
Các học giả Trung Quốc đã nêu lên nhiều tài liệu lịch sử để chứng
minh rằng Nam Hải là biển lịch sử của Trung Hoạ Họ viện dẫn rằng dưới triều Hán Vũ Ðế 100 ngàn hải quân Trung Hoa
đi tuần thăm các đảo thuộc Nam Hảị Sự
khám phá này được tiếp tục dưới đời nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh và nhà
Thanh.
Năm 1946 Trung Hoa quốc gia đặt tên Lưỡi Rồng Trung Quốc là Ðặc
Khu Hành Chánh Hải Nam. Và năm l947
đổi tên Hoàng Sa là Tây Sa và Trường Sa là Nam Sạ
Năm l974 Trung Cộng đẩy lui
các lực lượng hải quân của Việt Nam Cộng Hòa và chiếm nốt các đảo Hoàng
Sa tại Nhóm Lưỡi Liềm về phía Tây Nam.
Và năm l988 lần đầu tiên Trung Cộng đem quân xâm lấn Trường Sa, và
chiếm đóng 2 đá nổi và 6 đá chìm.
Những tài liệu lịch sử này không
đáng tin cậỵ
1) Chính sách bế quan tỏa cảng.-
Suốt chiều dài lịch sử, Trung Hoa không bao giờ chủ trương chinh
phục đại dương. Chủ thuyết bế quan tỏa
cảng được áp dụng từ đời nhà Tần (thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên). Vạn Lý Trường Thành không những là một kiến
trúc mà còn là một nhân sinh quan. Miền
bờ biển được coi là nơi hoang vu man rợ.
Ðảo Hải Nam trước kia là chốn lưu đày các tù nhân bị biệt xứ. Trong giả thuyết "Cổ Tẩu sát nhân"
của Mạnh Tử (thế kỷ thứ 4 trước công nguyên), vua Thuấn vào ngục thất cưú cha
là Cổ Tẩu (phạm tội cố sát) rồi cõng cha chạy trốn về ở vùng bờ biểnõõ để mai
danh ẩn tích cho đến trọn đờị Sau khi chôn
sống 460 nho sĩ tại Hàm Dương, Tần Thủy Hoàng lưu đày tất cả các nho sĩ khác
tại miền bờ biển. Trung Hoa là một đại
lục bao la, cả miền Tây và miền Bắc đãt rộng mênh mông còn chưa khai phá. Vậy mà từ đời Tần Thủy Hoàng, Trung Hoa đã
tự cô lập từ trong đãt liền đến ngoài đạI dương. Cho đến thế kỷ 20, chính sách bế quan tỏa cảng vẫn được thi hành.
Với tâm lý tự cô lập, không thể có 100 ngàn quân Trung Hoa đời Tây
Hán đi khai phá các đảo san hô bỏ hoang tí hon tại Nam Hải (Rãt có thể đó là 10
vạn thủy quân của Tào Mạnh Ðức mượn lệnh Hán Ðế để xâm chiếm Ðông Ngô và đã bị
Chu Công Cẩn đánh tan trong trận Xích Bích).
Các chuyến hải hành đời nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, và nhà
Thanh kể trên rất có thể chỉ là những cuộc nam chinh nhằm thôn tính Chiêm Thành
và Việt Nam. Lịch sử đã ghi rõ việc Lê Ðại
Hành phá tan thủy binh của Lưu Trung nhà Tống, quân Trần Hưng Ðạo bắn chết Toa
Ðô và bắt sống Ô Mã Nhi nhà Nguyên; Lê
Lợi đánh bại hải quân tiếp viện cho Vương Thông nhà Minh, và Quang Trung chặn
đường tiến quân của đề đốc Hứa Thế Hanh
nhà Thanh. Việc các thủy binh dời Minh
Thánh Tổ đi thăm viếng các quốc gia Á Phi nếu có, cũng không có tác dụng hành
sử chủ quyền trên hàng ngàn hải đảo tại Thái Bình Dương và Ấn Ðộ Dương. Từ thế kỷ l5, các nhà thám hiểm Bồ Ðào Nha
như Vasco de Gama và Magellan đã đi xuyên 3 đại dương từ Ðại Tây Dương, vượt Ấn
Ðộ Dương qua Thái Bình Dương (khám phá Phi Luật Tân và Guam), nhưng Bồ Ðào Nha
cũng không đòi chủ quyền tại hàng ngàn hải đảo trong 3 đại dương nàỵ
2. Danh xưng Nam Hảị
Vả lại theo các học giả Trung Hoa, Nam Hải là tên biển của Hoa
Nam, cách Quảng Ðông 50 dậm về phía nam.
Các nhà hàng hải Tây Phương muốn cho tiện nên gọi đó là Biển Nam Hoa
(South China Sea) (ngọai nhân xưng Nam Trung Quốc Hải). Theo cuốn Tự Ðiển Tối Tân Thực Dụng Hán Anh do các học giả Trung Hoa biên sọan tại
Hồng Kông năm 1971 thì ỏõNam Hải là vùng biển kéo dài từ Eo Biển Ðài Loan đến
Quảng Ðông ỏõ. (The Southern Sea
Stretching from the Taiwan Straits to Kwantung.)
Theo từ điển Từ Hải xuất bản năm 1948, thì Nam Hải thuộc chủ quyền
lãnh hải chung cho 5 nước là Trung Hoa, Mã Lai, Việt Nam, Phi Luật Tân và Ðài
Loan.
DO ÐÓ NAM HẢI KHÔNG BAO GIỜ CÓ NGHĨA LÀ BI"N CỦA NƯỚC TRUNG
HOA V" PHÍA NAM. (Cũng như Ấn Ðộ
Dương không phải là đại dương của Ấn Ðộ).
Sau khi ký Los Convention năm 1982, Trung Cộng đã vẽ lại bản đồ,
đòi chủ quyền lãnh hải toàn thể vùng biển Ðông Nam Á. Họ xem biển Ðông Nam Á (hay Nam Hải) là một thứ ỏõnội hải ỏõ của
họ theo kiểu Ðế Quốc La Mã ngày xưa coi Ðịa Trung Hải là Mare Nostrum (biển của
chúng tôi).
3. Luật pháp và án lệ.
Chiếu án lệ của Tòa Án Quốc Tế La Haye, biển lịch sử phải hội đủ 3
đièu kiện:
a) Phải có sự hành sử chủ quyền.
b) Một cách liên tục và trường
kỳ.
c) Và được sự thừa nhận của các
quốc gia trên thế giới, nhất là các nước tiếp cận và đối diện. Dầu sao theo Tòa Án Quốc Tế, biển lịch sử
chỉ là nội hảị
Ðiều 8 Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển (l982) đã kết thúc mọi cuộc tranh luận khi quy định:õõ Nội hải của một quốc gia nằm bên trong đất
liền hay về phía trong đường căn bản
của lãnh hải (The International Court
of Justice has defined "historic waters" as "internal
waters" "Waters on the
landward side of the baseline of the territorial sea from part of the internal
water of the State" Art.8 Los Convention (l982).
Kết luận: Nam Hải không thể là Biển Lịch Sử của Trung Hoa vì nó là ngoại hải và cách bờ
biển Trung Hoa tới hai ngàn cây số .
Và công trình 10 năm nghiên cứu của 400 học giả Trung Quốc rút
cuộc chỉ là công dã tràng xe cát biển Ðông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì!
B. V" HẢI ÐẢỌ
Như đã trình bằy ở trên, Trung
Hoa đem "biển lịch sử" hay
"lưỡi rồng" ra để hù doạ và tạo hỏa mù. Từ l982 họ đã ý thức tính cách phi lý của thuyết nội hảị Khi đó họ mới chỉ kiểm soát được Hoàng Sạ Năm l988 họ dùng võ lực tấn công hải quân Việt Nam và chiếm đóng
hai cao địa là Ðá Chữ Thập và Ðá Gaven.
Năm l992 họ tiến chiếm thêm sáu đá chìm. Sau khi giành giật chủ quyền tại bãi Tứ Chính thuộc thềm lục địa
Việt Nam, Trung Hoa đã chiếm thêm một
số đá chìm như Mischief (Vành Khăn) thuộc thềm lục địa Phi Luật Tân cách
Palawan từ 60 đến 130 hảI lý. Sự lấn
chíếm chỉ để hù dọa gây hỏa mù chứ không có tác dụng pháp lý.
Lý do là Tòa Án sẽ không cấp cho các đảo tại Hoàng Sa Trường Sa
vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa 200 hải lý.
Vì biết rõ điểu đó nên từ l988, sau khi đánh bại hải quân Việt Nam
tại Trường Sa Trung Hoa đã không thừa thắng xông lên để chiếm thêm một số đảo,
cồn, đá, bãi của Việt Nam và của Phi Luật Tân.
Sở dĩ Bắc Kinh không dám cạn tàu ráo máng, vì còn hy vọng thương
thảo về giải pháp "khai thác chung" như kiểu Ðại Hàn-Nhật Bản.
Ta hãy thử cứu xét các lý lẽ do Bắc Kinh nêu ra để đòi chủ quyền
về các đảọ
Theo một số học giả người Mỹ gốc Hoa, Trung Hoa có chủ quyền tại
Hòang Sa và Trường Sa vì hai lý do: Thủ
đắc chủ quyền do khám phá và thủ đắc do chiếm cứ.
1) Thủ đắc do khám phá (discovery)
Từ trên 2000 năm nay, dưới đời Tây Hán, 100 ngàn hải quân Trung
Hoa tuần hành tại Nam Hải đã khám phá các hải đảo Trường Sa và Hòang Sa và do
đó đã thủ đắc chủ quyền.
Lý luận như vậy là hồ đồ.
a) Trước hết không có tài
liệu khách quan nào kiểm chứng được có sự tuần thám của 100 ngàn hải quân
Trung Hoa tại các hải đảo trên biển Nam Hảị
Ðây chỉ là chuyện hoang đường hay thần thoạị
b) Vả lại kẻ khám phá
không phải đương nhiên là kẻ sở hữụ Hoa
Kỳ đã khám phá mặt trăng, treo cờ, lấy đá, chạy xe thử nghiệm và chiếm cứ tượng
trưng nhiều lần, nhưng không phải vì các hành động này mà Hoa Kỳ có thể tuyên
bố "mặt trăng thuợc chủ quyền không gian của Hoa Kỳ".
c) Các nhà thám hiểm hằng
hải quốc tế từ thế kỷ 15 như Vasco de Gama đã khám phá Mũi Hảo Vọng
tại Phi Châu và các hoang đảo tại Ấn Ðộ Dương; Magellan đã đi xuyên ba đại dương từ Ðại Tây Dương vượt Ấn Ðộ
Dương qua Thái Bình Dương khám phá quần đảo Phi Luật Tân và hảI đảo Guam. Văy mà Bồ Ðào Nha cũng không đòi chủ quyền các hải đảo và quần
đảo tại Ấn Ðộ Dương và Thái Bình Dương.
d) Cũng
trong tinh thần đó, khám phá ra Bắc Cực, Nam Cực, rồi cắm cờ, dựng bia kỷ niệm
tại đó không có hiệu lực ban bố chủ quyền cho ngườI chinh phục.
2) Thủ đắc do chiếm cứ (occupation)
Theo công pháp quốc tế, muốn thủ đắc chủ quyển các đất vô chủ
(terra nullius), sự chiếm cứ phải có
những đặc tính sau đây:
a) Chiếm cứ thực sự
Tại Trường Sa trong số 28 cao địa, Trung Hoa chỉ chiếm 2 đá nổi, trong
khi Việt Nam chiếm 13 cao địa và Phi Luật Tân chiếm 10 cao địạ Và trong số 53 đơn vị có địa danh, Trung Hoa
chỉ chiếm 8, so với 22 của Việt Nam và 18 của Phi Luật Tân.
b) Chiếm cứ công khai
Sự chiếm cứ phải công khai, không thể ngấm ngầm như trường hợp Trung Hoa
lấn chíêm và xây công sự tại đá chìm Mischief, (Vành Khăn) trên thềm lục địa
Phi Luật Tân.
c) Chiếm cứ hòa bình
Không có sự chối cãi rằng năm 1974 Trung Hoa đã dùng võ lực chiếm đóng
các hải đảo thuộc nhóm Lưỡi Liềm Hoàng Sa của Việt Nam.
Sự chiếm cứ không có tính cách hòa bình mà do xâm lăng võ
trang. Sự chiếm cứ bằng bạo hành không
được luật pháp bảo vệ. Củng như thờI Ðệ
Nhị Thế Chiến, Nhật Bản đã chiếm cứ Hoàng Sa và Trường Sa bằng võ lực nên không
có tư cách chủ quyền hợp pháp.
d) Chiếm cứ liên tục và
trường kỳ
Không có sự phủ nhận rằng ít nhất từ 1816 dưới đời Gia Long, Việt Nam đã
chiếm cứ công khai, liên tục, hòa bình các hải đảo Hòang Sa và Trường Sạ Bia chủ quyền do người Pháp dựng năm 1938 có
ghi rõ:
République Francaise
Empire dõAnnam
Archipel des Paracels
1816 -Ile de Pattle- l938
(đảo Hoàng Sa)
Các căn cứ quân sự của người Pháp được thiết lập từ đầu thập niên
l930, Ðài Khí Tượng Hoàng Sa mang số 48860 thuộc Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới bắt
đàu từ 1938. Trước đó từ 1928 Công Ty
Phosphate Bắc Kỳ đã khởi sự khai thác phân chim. Ngoài ra còn có hải đăng, Miễu Bà, nhà thờ thiên chúa, cầu tàu và
các nhà cửa công sự xây cất vớI sự đồn trú của Ðội Phòng Vệ Ðông Dương và của
quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Sự chiếm cứ
này có tính trường kỳ và liên tụ.c cho đến l974 khi hải quân Trung Cộng xâm
lăng.
Lịch sử Trung Hoa không mang lại bằng chứng nào cho biềt họ đã
ỏõliên tụcõõ chiếm cứ Hòang Sa, Trường Sa từ thời Hán Vũ Ðế hay ít nhất từ thời
Mãn Thanh.
Sau Ðệ Nhị Thế Chiến, khi quân đội Nhật Bản rút lui, năm 1946,
Trung Hoa mới chiếm cứ một phần Hòang Sa (nhóm An Vĩnh về phía đông bắc). TạI Trường Sa Trung Hoa thú nhận rằng lần
đầu tiên năm l988 họ. chiếm cứ một số đá bằng quân sự. Sự chiếm cứ này vô hiệu vì không có tính
cách hòa bình. Vả lại tới l974 và l988
các đảo Hoàng Sa -Trường Sa đã do Việt Nam chiếm đóng, nên không thễ coi đó là
đất vô chủ (terra nullius).
e) Hơn nữa sự chiếm cứ phải được sự thừa nhận của
các quốc gia liên hệ
1) Năm l951 tại Hội Nghị Hòa Bình Cựu Kim Sơn 51 quốc gia đòng minh ký Hiệp Ước Hòa Bình Nhật Bản
trong đó Nhật Bản Từ bỏ chủ quyền về các hải đảo Hoàng Sa Trường Sa, nhưng
không nói để trả cho nước nàọ Ðại biểu Liên Sô yêu cầu Hội Nghị biểu quyết trả
cho Trung Hoạ Nhưng hội nghị đã bác bõ
thỉnh cầu này với 46 phiếu chống. Sau
đó phái đòan Việt Nam lên diễn đàn minh thị công bố chủ quyền của Việt Nam đói
với Hòang Sa Trường Sa, và không gặp sự phản kháng nàọ
2) Sự thừa nhận chủ quyền hải
đảo chỉ có nghĩa nếu xuất phát từ các quốc gia liên hệ (nghĩa là các quốc gia
duyên hải đối diện hay tiếp cận). Như vậy không thể nói rằng vì môt thuyền
trưởng ngườI Ðức hay một uỷ ban người Anh nào đó đã thừa nhận, nên các hải đảo
tranh chấp là của Trung Hoạ Vì các đảo
này tọa lạc tại Biển Ðông Nam Á, nên chỉ các quốc gia Ðông Nam Á mới có thẩm
quyền thừa nhận. Mà cho đến nay tất cả
các quốc gia Ðông Nam Á không một nước nào thừa nhận chủ quyền của Trung Hoa
tại Hòang Sa Trường Sạ
3) Tuy nhiên Bắc Kinh còn viện
dẫn văn thư ngày 14-9-58 của Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng gởi Thủ Tướng Chu Ân
Lai để chủ trương rằng Việt Nam đã thừa
nhận chủ quyền của Trung Hoa tại Hoàng Sa và Trường Sạ
Ngày 4-9-l958 Chính Phủ Trung Hoa
ra tuyên cao mở rộng vùng lãnh hải từ 3 hải lý thành 12 hải lý và áp dụng cho
tất cả các lảnh thổ và hải đảo của Trung Hoa kể cả Tây Sa (Hòang Sa) và Nam Sa
(Trường Sa). Trong văn thư ngày
14-9-l958 gởi cho Chu Ân Lai, Phạm Văn
Ðồng cam kết tôn trọng tuyên cáo nói trên.
Ðọc kỹ văn thư của Phạm Văn Ðồng
ta chỉ thấy nói tôn trọng ỏõhảI phận (lãnh hải) 12 hải lý của Trung Quốcõõ chứ không đề cập đến chủ quyền các hải đảo Trường Sa và Hòang Sạ Văn thư viết: "Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tán thành bản tuyên bố
của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận (lãnh hải)
của Trung Quốc (...) và sẽ ra chỉ thị triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc".
Căn cứ vào tầm bắn đại pháo, Trung Hoa mở rộng lãnh hải
(territorial sea) từ 3 hải lý thành 12 hải lý. Ðiều 3 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (l982) cũng quy định
tương tự như vậỵ Vả lại trong thời gian
này (l958), các hải đảo Trường Sa Hòang Sa vì nằm tại các vĩ tuyến từ 17 đến
7 Bắc (Quảng Trị-Cà Mâu) nên thuộc lãnh hải và lãnh thổ Việt Nam Cộng
Hòạ Vãn đề lãnh thổ và lãnh hải thuộc
thẩm quyền của quốc dân do quốc hội đại diện, chứ không thuộc hành pháp là cơ
quan thừa hành hay chấp hành luật pháp của quốc hộị Và các Quốc Hội Việt Nam (Nam và Bắc) trong những năm 1956, 1964,
l977, l982, l988 và l992 đã nhiều lần công bố chủ quyền của Việt Nam tại Hòang
Sa và Trường Sạ Một văn thư có tính
cách nghi thức ngọai giao thông thường như văn thư ngày 14-9-l958 của Chính Phủ
Hà Nội không có hiệu lực thừa nhận chủ quyền lãnh thổ hay lãnh hải của các đảo
thuộc quyền kiểm soát của Chính Phủ Saigon hồi đó.
C. THỀM LUC ÐIA
Vấn đề thực sự tại Trường Sa Hoàng Sa là vấn đề thềm lục địạ Dầu
khí tại thềm lục địa quan trọng hơn các đảo cồn đá bãi tí hon ngòai biển khơị
1. Về Trường Sạ
Tại Trường Sa ba bãi dầu khí đang khai thác là Bãi Tứ Chính (Vanguard)
tại thềm lục địa Việt Nam, bãi Cỏ Rong (Reed Bank) tại thềm lục địa Phi Luật
Tân và bãi Natuna phía bắc đảo Natuna thuộc thềm lục địa Nam Dương. Năm l947 Trung Hoa chủ xướng thuyết Lưỡi
Rồng đòi lấn chiếm hầu hết các bờ biển Việt, Phi, Nam Dương.. Công Ước LHQ về Luật Biển công nhận cho các
quốc gia duyên hải 200 hải lý thềm lục địa độc quyền khai thác dầu khí. Thềm lục địa có thể kéo đài tới 350 hải lý,
nếu về mặt địa hình, đáy biển là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa từ đãt liền
ra ngoàibiển. Tứ Chính, Cỏ Rong, Natuna
cách bờ biển Trung Hoa từ 500 đến 1000 hải lý hiển nhiên không thuộc chủ quyền
của Trung Hoạ
Do đó từ 1983, sau khi ký Los Convention 1982, Bắc Kinh nêu lên
thuyết LưỡI Rồng trong chiến dịch hỏa mù, rồi nguỵ tạo tài liệu lịch sử đòi chủ
quyền tòa vùng Nam Hảị
Năm l992 Bắc Kinh tự tiện ký khế ước với Công Ty Creston để khai
thác dầu khí tại phía đông Tứ Chính.
Mục tiêu của họ là gây hỗn lọan, bất ổn tại vùng duyên hải, rồi đưa ra đề
nghị hòa đàm song phương, tạm gác vấn đề chủ quyền để cùng khai thác chung như
Ðại Hàn, Nhật Bản.
Tuy nhiên Ðại Hàn Nhật Bản là hai quốc gia duyên hải đối diện nhau
và có thềm lục địa chung tại nhiều khu vực.
Như trong vùng eo biển Ðại Hàn các hải đảo của hai quốc gia chỉ
cách nhau từ 50 đến 100 hải lý. Khai
thác chung trong trường hợp này là hợp tình hợp lý.
Tại khu Trường Sa trái lại, không có thềm lục địa chung giữa Trung
Hoa Việt Nam và Phi Luật Tân. Do đó vấn
đề khai thác chung không đặt rạ Hơn nữa tại nhiều khu vực có tới 3, 4 hay 5, 6
quốc gia cùng đòi chủ quyền hải đảọ Do
đó cần có một hội nghị điều giải đa phương hay một tòa án trọng tài hay tòa án
quốc tế để gỉai quyết dứt khóat vụ tranh chấp.
2. Về Hòang Sạ- Chiếu Công Ước về Luật Biển, Hòang Sa thuộc
thềm lục địaViệt Nam vì tọa lạc trong phạm vi 200 hải lý từ đường căn bản hay
bờ biển. Khoảng cách từ cù lao Ré
(Quãng Ngãi) ra đảo tri tôn chỉ có 123 hải lý.
Về mặt địa lý theo các chuyên viên địa chất, các đảo Hòang Sa là sự tiếp nối tự nhiên của dẫy Trường Sơn từ
đất liền chạy ra biển. Có thể nói Hoàng
Sa là những bình nguyên của lục địa Việt Nam trên mặt biển. Chiếu Luật Biển 1982 quyền của các quốc gia
duyên hải tại thềm lục địa không tùy thuộc vào sự chiếm cứ. Do đó sự chiếm đóng võ trang của quân đội
Trung Hoa không có tác dụng truất phế chủ quyền của Việt Nam tại Hòang Sạ
3. Các tiêu chuẩn.
Tại Hòang Sa có vấn đề phân ranh thềm lục địa giữa Việt Nam và
Trung Hoạ Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Ðịa
thuộc Liên Hiệp Quốc và Toà Án Quốc Tế sẽ giải quyết theo các điều khỏan của
Công Ước về Luật Biển l982, cũng như các tiêu chuẩn trong luật tục lệ quốc tế
ghi chú trong các phán quyết của Toà Án.
Tựu chung có 10 tiêu chuẩn hướng dẫn tòa án trong việc phân định
ranh giới hải phận. Ðó là:
1) Vị trí của các đảo đối
với bờ biển tiếp cận. Tại vùng Hòang
Sa, từ đảo Tri Tôn thuộc Nhóm Lưỡi Liềm tới lục địa Việt Nam khỏang cách đo
được 135 hải lý, trong khi đảo Hoàng Sa cách lục địa Trung Hoa lối 235 hải lý.
2) Diện tích các hải đảo so sánh với chiều dài bờ biển
tiếp cận. Như đã trình bày, đảo Hòang
Sa quá nhỏ bé (0.56km2) chỉ bằng một phần ngàn đảo Phú Quốc (568km2) trong khi
bờ biển Việt Nam dài gấp 10 lần bờ đảo Hải Nam phía tiếp giáp Hòang Sạ
3) Về mặt địa hình đáy biển, các đảo, cồn, đá, bãi Hòang Sa là sự
tiếp nối tự nhiên từ thềm lục địa Việt Nam (dãy Trường Sơn ) chạy ra biển. Nếu nước biển rút xuống khỏang 700m, giải
Hòang Sa sẽ biến thành một hành lang chạy thoai thoải từ bờ biển Việt Nam ra
khơI. Theo Công Ước LHQ về Luật Biển,
NỀN LUC ÐIA bao gồm thềm lục địa cộng
với đường dốc xuống biển và những bình nguyên, cao địa, chóp biển, bãi cao và sườn đá dưới
biển. Nền lục địa có thể dài hơn 200
hải lý, tối đa 350 hải lý. Theo sự nhận
xét của các chuyên gia tạI Trung Tâm Hải Học Ðông Tây (Hawaii), Việt Nam có
nhiều triển vọng được ủy Ban Ðịnh Ranh Thềm Lục Ðịa Liên Hiệp Quốc quyết định
cho nới rộng thềm lục địa tại Hòang Sa và Trường Sa qua mức 200 hải lý cho tới
350 hải lý.
4) Về mặt địa chất, các thủy tra thạch kết tụ các chất hữu cơ do
nước phù sa sông Hồng Hà và sông Cửu Long chạy từ cao nguyên Tây Tạng xuống đáy
biển Hòang Sa Trường Sa từ cả triệu năm naỵ
Không có con sông lớn nào từ lục địa Trung Hoa hay đảo Hải Nam chảy ra
Nam Hải cho phép Trung Hoa quyền khai thác các túi dầu khí tại miền nàỵ
5) Về sinh thực học và khí
hậu tại Hòang Sa và Trường Sa, các đảo san hô cũng như cây cỏ và sinh vật tiêu
biểu cho vùng nhiệt đới (Việt Nam ), chứ không thấy ở vùng ôn đới (Trung Hoa).
6) Biển Ðông với Hòang Sa Trường Sa có ảnh hưởng
kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng mật thiết với Việt Nam nhiều hơn Trung
Hoa, vì Trung Hoa còn có biển Hòang Hải và Ðông Trung Quốc Hải chạy thông qua
Thái Bình Dương.
7) Về mật độ dân số, các hải đảo Hòang Sa và Trường Sa không có
thường dân cư ngụ, không có nước ngọt và không thể tự túc về kinh tế. Trong khi đó số dân cư ngụ tại miền bờ biển
Việt Nam đông gấp vài chục lần số dân sinh sống tại đảo Hải Nam.
8) Về Khu Ðặc Quyền Kinh
Tế (để đánh cá), bờ biển Trung Hoa dài gấp 3 lần bờ biển Việt Nam.
Do đó, Biển Ðông (với Hoàng Sa và Trường Sa) là khu vực đánh cá căn bản
của Việt Nam.
9) Tại thềm lục địa Việt
Nam những vùng có dầu khí nằm trong vịnh Bắc Phần và khu vực bãi Tứ Chính
ở ngòai khơi Nam Phần.. Ðây là những
nơi kết tầng các thủy tra thạch chứa đựng các chất hữu cơ từ sông Hồng Hà và
sông Mê Kông chảy ra biển từ hàng triệu năm naỵ Do đó dầu khí nếu có là do các chất hữu cơ từ lục địa Việt Nam
chứ không phải từ Hoa Lục.
10) Các tài liệu sách báo,
họa đồ, các chứng tích lịch sử v.v. phảI có tính xác thực. Dầu sao các tài liệu này không có giá trị
bằng các yếu tố khách quan khoa học như địa lý, địa hình, địa chất, sinh thực
học, khí hậu, dân số v.v. Nhất là nó
không thể đi ngược lại các điều khỏan của Công Ước về Luật Biển và các nguyên
tắc thành văn của Luật Tục Lệ Quốc Tế do các tòa án quốc tế áp dụng từ nhiều
thập kỷ naỵ
Vấn đề căn bản đặt ra cho Hoàng
Sa Trường Sa là các đảo, cồn, đá, bãi quá nhỏ bé, quá rải rác, không có dân cư
sinh sống và không tự túc về kinh tế, nên không được coi là đảo theo nghĩa luật
đị.nh. Nếu không phải là đảo theo nghĩa
pháp lý thì không được hưởng quy chế 200 hải lý để đánh cá và khai thác dầu
khí.
VIỆT NAM PHẢI LÀM GÌ ?
1) Trước hết Việt Nam phải nhờ
các luật gia và chuyên gia quốc tế vẽ ranh thềm lục địa địa lý hay Nền Lục Ðịa
để yêu cầu Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Ðịa Liên Hiệp Quốc chấp thuận cho nới rộng
thềm lục đáy qua mức 200 hải lý tới mức 350 hải lý.
2) Muốn vậy, trước hết Việt Nam
phải tuân hành Luật Biển bằng cách vẽ lại và thu hẹp Ðường Căn Bản cho hợp
pháp.
3) Phát triển tối đa kỹ nghệ đánh
cá ngòai khơi trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý để sử dụng đúng mức, điều
hành và bảo tồn nguồn lợi ngư nghiệp thiên nhiên tại Biển Ðông, kể cả việc khai
thác chung ngành ngư nghiệp quốc tế.
4) Vận động với các quốc gia
trong khối ASEAN đổi danh xưng Biển Nam Hoa thành Biển Ðông Nam Á.
5) Ðưa vụ tranh chấp Thềm Lục Ðịa
và các Hải Ðảo Hoàng Sa Trường Sa ra Toà Án Quốc Tế, nếu cuộc điều giải bất
thành.